Xin đừng đứng bên mồ tôi nhỏ lệ
Xin đừng đứng bên mồ tôi thổn thức
Vì tôi không yên ngủ ở nơi đây
Tôi là ngàn gió thổi giữa rừng cây
Là hạt tuyết tựa kim cương lấp lánh.
Tôi là nắng nhuộm vàng bông lúa chín
Là cơn mưa dìu dịu những ngày thu
Khi con thức dậy buổi sáng nhẹ ru
Tôi chính là sự vút lên bỗng chốc
Của đàn chim lặng lẽ lượn thành vòng
Xin đừng đứng bên mồ tôi thổn thức
Tôi không ở đây. Tôi đã chết đâu.
Phan Hạnh phóng tác
*
cuối trang sách “Last Man Out” James E. Parker Jr. đã chọn bài thơ của một chiến binh Mỹ ẩn danh (Làm tại Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam, khoảng năm 1969). Từ và ý bài thơ hoa mỹ, lãng mạn và phảng phất siêu thoát, nhưng dứt bằng một câu thơ đầy hào khí tang bồng hồ thỉ như khí tiết của những chiến sĩ, hiệp khách Đông Phương. Tạm dịch nghĩa:
*
cuối trang sách “Last Man Out” James E. Parker Jr. đã chọn bài thơ của một chiến binh Mỹ ẩn danh (Làm tại Cao Nguyên Trung Phần Việt Nam, khoảng năm 1969). Từ và ý bài thơ hoa mỹ, lãng mạn và phảng phất siêu thoát, nhưng dứt bằng một câu thơ đầy hào khí tang bồng hồ thỉ như khí tiết của những chiến sĩ, hiệp khách Đông Phương. Tạm dịch nghĩa:
Đừng đứng bên mộ anh và nhỏ lệ:
Anh không ở trong mộ này. Anh không ngủ đâu em.
Anh là ngàn ngọn gió thổi khắp phương trời
Anh là kim cương lấp lánh trên tuyết lạnh
Anh là ánh nắng nhuộm vàng hạt lúa chín
Anh là giọt mưa của trời thu êm ả
Khi em thức giấc lúc ban mai thinh lặng
Anh là lực xua đàn chim vụt bay cao
Những cánh chim lặng lẽ lượn những đường vòng
Đừng đứng bên mộ anh và khóc lóc:
Anh không ở trong mộ này. Anh không chết đâu em.
Do not stand by my grave and weep
Do not stand by my grave and weep:
I am not there. I do not sleep…
I am a thousand winds that blow
I am the diamond’s glint on snow
I am the sunlight on ripened grain
I am the gentle autumn’s rain
When you awake in the morning’s hush
I am the swift uplifting rush
Of quiet birds in circle flight
Do not stand by my grave and cry:
I am not there. I did not die.
Đây là bài thơ duy nhất của Mary Frye cảm
tác viết ra trong đời sau khi nghe cô bạn di dân người Đức gốc Do Thái ở
trọ nhà bà đau buồn kể chuyện mẹ cô mất ở quê nhà nhưng không thể về
thọ tang. Mary Frye không phải là thi sĩ chuyên nghiệp theo nghĩa thông
thường mà chỉ là một phụ nữ nội trợ và làm nghề cắm hoa an phận với cuộc
đời bình dị. Đó là một trong những lý do bài thơ Do not stand by my grave and weep phổ biến trong nhiều thập niên nhưng tác giả chẳng biết là ai.
*
Xin đừng đứng bên mồ tôi nhỏ lệ
Con yêu ơi, thôi con đừng khóc nữa
Vì thật ra hồn mẹ chẳng ở đây
Đã quyện vào cơn gió giữa rừng cây
Là hạt tuyết tựa kim cương lấp lánh.
Là nắng nhuộm trên cánh đồng lúa chín
Là cơn mưa dìu dịu những ngày thu
Mỗi ngày con thức buổi sáng nhẹ ru
Mẹ là đàn chim tung bay cao vút
Con thôi đứng bên mồ mẹ thổn thức
Mẹ không ở đây. Mẹ đã chết đâu.
Phan Hạnh-2
**
**
Bài thơ mất 66 năm sau mới tìm ra đúng tác giả
Thật ra, theo bách khoa từ điển mở Wikipedia, Do not stand by my grave and weep
là một bài thơ độc nhất nhưng rất nổi tiếng do phụ nữ người Mỹ tên Mary
Elizabeth Frye sáng tác vào năm 1932 trong một bối cảnh khác.
Trong Anh ngữ, các đại danh từ “I” và “You” có thể diễn đạt trong
bất cứ mối liên hệ nào cũng được. Khi dịch ra Việt ngữ, hai đại danh từ
đó thay đổi tùy từng mối liên hệ ngôi thứ vai vế và kể cả tình huống
nữa.
Do đó, bản dịch Việt ngữ trên đây xứng hợp trong liên hệ chồng vợ,
như lời nhắn nhủ của tử sĩ dành cho quả phụ trong hai câu cuối: “Đừng
đứng bên mộ anh và khóc lóc/Anh không ở trong mộ này. Anh không chết đâu
em.”
Nhưng Mary Elizabeth Frye đã viết lên bài thơ trong một bối cảnh
khác và mối liên hệ khác. Để hiểu rõ hơn, chúng ta cần trở lui về quá
khứ của 80 năm trước.
Nguyên nhân và nguồn cảm hứng
Mary Elizabeth Clark chào đời tại thành phố Dayton tiểu bang Ohio
vào ngày 13 tháng 11, 1905 và mất ngày 15 Tháng Chín năm 2004. Mồ côi từ
lúc mới lên 3 tuổi, Mary kết hôn với Claud Frye năm 1927 và trở thành
bà nội trợ Mary Frye sống ở thành phố Baltimore. Chính nơi đây, Mary đã
viết lên bài thơ độc nhất vào năm 1932. Vào thời điểm đó, vợ chồng Frye
có cho một cô gái di dân người Đức gốc Do Thái tên Margaret Schwarzkopf
trú ngụ. Margaret Schwarzkopf lo lắng về tình trạng đang đau bệnh của
người mẹ ruột của mình vẫn còn ở Đức. Sự gia tăng của phong trào bài
xích người Do Thái ở nước Đức đã khiến cho Margaret khó có
thể trở về quê thăm mẹ. Khi mẹ qua đời bên kia bờ Đại Tây Dương,
Margaret đau khổ nói với Mary Frye
rằng cô đã không có cơ hội để đứng trước ngôi mộ của mẹ và được khóc.
Mary Frye làm bài thơ trong một khoảng khắc thương cảm hoàn cảnh của
người khác vì bản thân mình cũng mất mẹ và thiếu vắng tình thương của mẹ
từ khi ba tuổi.
Nơi bàn ăn nhà bếp, trong ngập tràn cảm xúc bất chợt, Mary đã viết
lên những dòng thơ trên một bao giấy dầu màu nâu đựng thức ăn mua ở chợ.
Sau này bà kể ý nghĩ về sự tử sinh tự nhiên nảy ra trong đầu óc và tuôn
chảy qua ngòi bút bằng dòng thơ. Mary Frye đã tự đặt mình vào vai trò
của một người mẹ qua đời khuyên đứa con gái đừng bi lụy khóc than, và bà có ngờ đâu đã để lại cho đời một bài thơ bất hủ mà người ta thường xướng đọc trong các lễ hạ huyệt ở nghĩa trang.
Sau đó Mary Frye đã đưa bài thơ mà bà đã ngẫu hứng cảm tác cho một
số người thân trong gia đình và bạn bè xem. Dù bài thơ không bao giờ
được công bố để bảo vệ bản quyền bằng một văn kiện chính thức nhưng nó
vẫn tồn tại qua thời gian và đã được xác nhận bằng cáo phó của bà đăng
trên báo Times và điếu văn của người thân đọc trong tang lễ khi bà mất.
Báo Times đã xác nhận Mary Frye là tác giả không thể tranh cãi của
bài thơ nổi tiếng này, một bài thơ đã được ưa chuộng xướng đọc tại tang
lễ và những dịp thích hợp khác trên toàn thế giới trong suốt tám mươi
năm qua. Kết quả của một cuộc thăm dò ý kiến những người mê đọc sách năm
1996 bầu chọn nó là bài thơ được yêu thích nhất của Anh quốc.
Cuộc điều tra đi tìm tác giả
Nhiều người ở vương quốc Anh bắt đầu nghe biết đến bài thơ kể từ
khi cha của một người lính Anh bị tử thương do một vụ nổ bom ở Bắc Ái
Nhĩ Lan đã nhờ đài phát thanh BBC đọc lên vào năm 1995 để tưởng nhớ con
trai của ông. Điều này đã gợi trí tò mò của nữ phóng viên báo chí
Abigail Van Buren. Nữ ký giả này đã bỏ ra mấy năm mở cuộc điều tra truy
tìm tác giả và sau cùng tìm ra đầy đủ bằng chứng xác nhận năm 1998. Bản
chính gốc của bài thơ đã được báo The Times ấn hành và được đọc trong
tang lễ của tác giả ngày 5 tháng 11 năm 2004.
Trước khi được chính thức xác nhận của Mary E. Fry và qua nhiều
thời kỳ khác nhau, bài thơ này đã được cho là của JT Wiggins, một di dân
người Anh ở Mỹ hoặc của Marianne Reinhardt, một chiến binh Mỹ ẩn danh
nào đó nơi vùng cao nguyên Việt Nam, và gần đây là Stephen Cummins, một
người lính Anh thiệt mạng ở Bắc Ireland đã để lại một bản sao cho người
thân của mình. Nhiều người khác cho đó là một lời cầu nguyện trong lễ
chôn cất của người da đỏ Navajo ở miền Tây Nam Hoa Kỳ.
Cảm nghĩ riêng thay lời kết
Có người cho rằng chết giống như cởi bỏ chiếc áo cũ để mặc vào
chiếc áo mới đẹp đẽ hơn. Người chết là người ngủ một giấc ngủ không bao
giờ thức dậy nữa, an giấc ngàn thu. Vì vậy con người không nên bi lụy khóc than khi người thân qua đời.
Nhưng trên thực tế, không ai không cảm thấy nỗi đau mất mát to lớn
choáng ngợp khi phải vĩnh viễn chia lìa người mình thương mến. Nỗi đau
bao giờ mới nguôi ngoai khó mà xác định. Phản ứng và sự biểu lộ cảm xúc
trước cái chết cũng mỗi người mỗi khác và còn tùy thuộc vào phong tục xã
hội. Có người gào khóc vật vã, có người chỉ thầm rơi lệ.
Sinh ly tử biệt là định luật thường tình bất biến của cuộc đời nên
con người đành chấp nhận. Đến một lúc nào đó, những người chúng ta yêu
thương đều sẽ mất đi theo thời gian. Chấp nhận sự mất mát là liều thuốc
tinh thần giúp chữa lành những nỗi đau và đem lại cho chúng ta sự bình
an.
Tóm lại, tình trạng vĩnh viễn chia lìa với người thân yêu có thể
đem lại một nỗi đau sâu thẳm, nhưng chúng ta nên biết chấp nhận, không
nên chìm đắm trong sầu bi khổ lụy vô ích. Có biết bao
người như tôi ở hải ngoại, vì hoàn cảnh, không thể có mặt tiễn đưa cha
mẹ trở về lòng đất nơi quê nhà. Tôi mong nghĩ linh hồn cha mẹ linh thiêng là làn gió xuân thoảng hương thơm hoa lilac trước hiên, là tia nắng ban mai đến sớm tháng hè, là rừng phong thay áo trong mùa thu, là những hoa tuyết mùa đông mong manh lất phất rơi bám vào cửa sổ thư phòng, là trăng sao vời vợi trên bầu
trời đêm khuya thức viết bài cho kịp… Văng vẳng trong tâm thức đứa con như có tiếng thì thầm của mẹ là “Con đừng đứng bên mồ Má thổn thức… Vì Má không yên ngủ ở nơi đây.”
Trong đêm tĩnh lặng, tôi nghe lòng mình quặn thắt rưng rưng để cố ngăn cho khỏi khóc.
Phan Hạnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét